Long Hải đón chúng tôi vào một ngày tháng ba đầy nắng và gió. Thị trấn nhỏ bé thuộc huyện Đất đỏ anh hùng ngày nào, giờ đây sao quá đỗi bình yên. Những con đường dài và hẹp ướp nồng vị biển mặn mòi đưa chúng tôi đến những vùng đất lạ lẫm, đến với những người ngư dân mà nắng gió khắc nghiệt của biển khơi không thể phai đi nét mộc mạc, hồn nhiên. Và đằng sau những tâm sự đôn hậu, chân chất ấy đã đọng lại trong chúng tôi biết bao nỗi niềm khi mà thiên tai cùng những điều kiện vật chất còn quá khó khăn đã khiến cho bà con nơi đây phải chịu bao nhiêu cảnh thiệt thòi về nơi ăn chốn ở, lo lắng về cái nghiệp mưu sinh và trên hết là tương lai của những thế hệ mai sau…
· Chân dung một làng chài…
Ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến làng chài là cái vị mặn mòi của biển ùa lên tràn ngập khắp không gian. Mùi vị tanh nồng, hăng hắc dường như thấm đẫm trong từng giọt nắng, từng cơn gió biển đang thổi ào ạt vào bờ. Có lẽ vị biển đã quá quen thuộc với những con người nơi đây nhưng đối với chúng tôi – những kẻ mới đến không khỏi cảm thấy khó chịu. Chúng tôi cố tỏ vẻ bình thản, bước nhanh trên con đường cằn cỗi, cháy nắng không một bóng cây. Con đường dọc biển nối cả làng chài Phước Hải bằng những mái nhà lụp xụp, chắp vá, lác đác mới thấy được một ngôi nhà xây mà vôi tường cũng đã nứt nẻ đi nhiều. Bờ biển nơi đây cũng khác hẳn các bãi tắm bình thường.
Cát trắng được đắp bởi nhiểu mảng màu khác nhau do cơ man những lớp cá phơi mình la liệt trên bãi biển. Cứ cách một đoạn lại có các cô các chị túm tụm thành từng nhóm khoảng trên dưới chục người ngồi rửa, ướp và phơi cá đan, tiếng cười nói vui vẻ đan xen bên những thùng nước mắm đen cháy. Họ nhìn chúng tôi với những ánh mắt ngạc nhiên nhưng thân thiện và pha lẫn chút thích thú. Trong một phút chốc, tôi như cảm thấy mình quá lạc lõng giữa nhhững con người lao động nghèo nơi làng chài.
Trải dọc trên con đường làng chài là nhữngcăn chòi xậ p xệ chống chịu nắng gió biển khơi.
· …đến cuộc gặp gỡ bất ngờ…
Chúng tôi đang phân vân chưa biết phải bắt đầu từ đâu, không biết đi đâu và đang định quay lại thì bỗng nghe tiếng một em nhỏ la vang: “ Mấy chị ơi, chụp hình cho tụi em với!”. Chiếc máy chụp hình trên tay tôi chợt phát huy tác dụng đến không ngờ. Chúng tôi liền ghé lại và chụp hình cho một nhóm người ngư dân. Họ tỏ ra rất thích thú và vui vẻ đón chào những vị khách lạ bằng nụ cười ấm áp và ánh mắt thân tình. Quả thật một hành động thiện chí còn quý hơn gấp nhiều lần những lời hỏi thăm sáo rỗng, hình thức. Mấy cô bác dân chài chất phác, đôn hậu tỏ ra vui vẻ khi chúng tôi chụp hình.Và cũng thật tự nhiên, bao nghĩ suy, bao nỗi âu lo, trăn trở đời thường nơi những con người lao động nghèo dường tuôn trào ào ạt như những con sóng nơi biển lớn.Và chính những tấm chân tình của bà con nơi đây đã khiến chúng tôi, dù chỉ tiếp xúc trong khoảng thời gian ngắn ngủi, thực sự xúc động.
· …cùng bao nỗi lo toan:
Khi chúng tôi ghé thăm làng chài, hầu hết chỉ bắt gặp toàn cụ già, phụ nữ và trẻ con tung tăng chạy giỡn. Hỏi ra mới biết, lúc chúng tôi đến thì tàu ra khơi mang theo bao trai tráng khoẻ mạnh, trụ cột chính của làng vẫn chưa về. Những người ở lại làng, trong khi chờ đợi thân nhân về phải làm thêm những công việc phụ như chế biến khô cá, mực, làm nước mắm để bỏ mối ngoài chợ. Những cụ già, em nhỏ, hay những người bệnh tật không làm được việc nặng thì luôn tay gỡ móc những chiếc lưới bị “lỗi” lãnh từ các nhà máy về làm lại.
Bà cụ ngồi gần đó tâm sự: bà có ba con trai thì cả ba cũng đã theo bạn chài ra biển. Dì Trúc một người phụ nữ trẻ đang đút cơm cho cô bé con mơí ba tuổi cũng đang chờ chồng về sau một tháng ra khơi. Ở đây- bà nói- tàu đi cả tháng mới về một lần, nhưng cũng chỉ đi gần đây vì phương tiện còn nhiều hạn chế. Vất vả là thế song người đi biển thu nhập cũng không được bao nhiêu, năm bảy triệu cho cả một con tàu mấy chục người, “mà mình cũng chỉ làm thuê cho chủ”. Tôi nghe như có tiếng thở dài xa xôi lắm…
Cái nghề cái nghiệp ờ đây cũng thật bạc bẽo, ăn đời ở kiếp với biển, coi biển như là người mẹ, sống chết cũng trông cả vào đấy. Chồng, cha ra biển kiếm sống, vợ con ở nhà cũng bám lấy biển tìm kế sinh nhai đắp đổi qua ngày. Ấy vậy mà, mỗi khi biển lên cơn cuồng nộ, thì thật kinh hoàng, trút bao nhiêu con sóng, con gió hung hãn lên những mái tranh nghèo chạy dọc ven bờ. Khi nghe chúng tôi hỏi về cơn bão Durian mới cách đây vài tháng, dì Ánh- một nhân chứng sống đã kể lại cho chúng tôi nghe về cái đêm kinh hoàng ấy với ánh mắt còn chưa hết khiếp sợ. Đêm ấy khoảng độ 3, 4 giờ sáng mọi người còn đang ngon giấc thì bão đến. Dữ dội, táo tợn, cuốn bay những mái nhà yếu ớt, tan tác. Những nhà nào may mắn có giườn
g tủ thì chui xuống dưới trú bão, không có thì lấy mềm trùm kín người cho đến khi bão tan. Dì bảo cũng một phần mình chủ quan vì trước giờ ở đây ít có bão. Một điều may mắn là cả làng chài không bị thiệt hại gì về người vì giờ đó chưa có ai ra biển, chứ “ nếu bão đến muộn một chút nữa thì…” Dì không dám nói tiếp, mắt nhìn xa xăm…Mấy đứa nhỏ nghe kể chuyện vẫn hồn nhiên cười đùa và phụ hoạ theo mẹ, diễn tả lại hành động đêm hôm ấy cho chúng tôi xem. Có lẽ trong đầu óc non nớt của các em, bão chỉ như một hòn đá ném xuống cái ao phẳng lặng, như cái gì đó biến động làm thay đổi cuộc sống buồn tẻ. Còn đối với những người lớn nơi đây, cơn bão chính là cơn ác mộng, đi qua nhưng đã để lại biết bao nhiêu nỗi lo chồng chất nỗi lo. “Sầu riêng” nhưng đã trở thành nỗi sầu chung cho cả làng chài.
Theo lời kể của dì Ánh, sau khi cơn bão đi qua, “mấy ổng” tức là chính quyền nơi đây đã cho giải toả toàn bộ những ngôi nhà sát biển để người dân di dời vào sát đất liền hơn. Lo lắng cho tính mạng và sự an toàn của gia đình, mọi người đều chấp hành lệnh giải toả để đến một nơi ở mới. Thế nhưng đã hơn bốn tháng trôi qua từ ngày cơn bão tan, hơn năm trăm hộ gia đình ngư dân nơi đây vẫn chưa biết mình sẽ phải ở đâu, phải đi về đâu. Có hộ kha khá thì mướn nhà trọ ở qua ngày, còn phần đông khó khăn như nhà dì Ánh đành cất tạm bợ lên một căn chòi từ những gì còn sót lại của ngôi nhà cũ để có chỗ ngả lưng khi đêm xuống, trú tạm lúc nắng mưa.
Chúng tôi theo chân dì Ánh về tận “nhà mới” của dì cách đó không xa. Chẳng biết đó có phải là “nhà” không nữa khi mà bốn bức tường là những tấm tôn vá lỗ chỗ, tạm bợ, xiêu vẹo như có thể đổ ụp bất cứ lúc nào. Vừa bước vào nhà, cái nóng hừng hực bỗng bốc lên khó chịu bởi nắng từ tấm tôn rỉ sét hắt thẳng trên đầu xuống cộng hưởng với cát bỏng chân phía dưới bốc lên. Căn nhà bé xíu chỉ khoảng độ vài mét vuông chằng có thứ gì tạm gọi là có giá trị. Chiếm nhiều không gian nhất là hai cái giường con cùng chén bát mùng mền đều chất trên đó, một cái võng mhỏ xíu cho “ổng” một cái tủ nhỏ và cái nồi cơm điện đã ố vàng – có lẽ là thứ đáng giá nhất trong nhà dì
Quây quần trong mái tranh nghèo của gia đình dì Ánh.
Kể với chúng tôi, dì ngậm ngùi, trước đây nhà dì cũng có đầy đủ lắm, sau khi bão về là mất sạch. Lúc bão mới đi qua nhà nước chỉ trợ cấp được hai triệu đủ mua tôn về chắp vá lại sống tạm qua ngày chờ tái định cư. Nhưng đến giờ vẫn chưa biết rốt cuộc được cấp đất ở đâu. Chính vì chưa an cư, dì không dám sửa sang lại ngôi nhà của mình cho đàng hoàng hơn. Ngay cả điện nước dì cũng không dám bắt cố định, phải chịu cảnh thuê mướn lại với giá đắt hơn mà vẫn phải cắn răng chấp nhận.Nước, dì phải mua 4.000 đ được hứng trong một tiếng, chứa được sáu lu, xài trong hai ngày. Còn điện, càng eo hẹp hơn, câu nhờ nhà hàng xóm với 20.000/tháng mà chỉ được cắm cái nồi cơm điện và một bóng đèn nhỏ xíu khi trời tối. Kể chúng tôi nghe dì không khỏi tiếc nhớ ngôi nhà cũ chắc chắn, và khá đầy đủ thuở xưa.Vậy mà dì còn đỡ hơn một người khác cũng ở gần đó- nhà bà ấy còn “xập xệ hơn vầy nữa”- dì tâm sự.
Thế nhưng, trên bao nhiêu lo âu về nơi ăn chốn ở, về cái nghề ngư dân mà cuộc sống còn nhiều bấp bênh, chúng tôi cảm nhận được nỗi lo lớn nhất của những ngưởi dân nơi đây không chỉ là cơm ăn, áo mặt mà còn về tương lai của thế hệ con cháu về sau. Dì Ánh có bốn người con, ba trai một gái nhưng chỉ còn mỗi thằng Út đang học lớp Sáu mà cũng đang định bỏ. Dì kể tại đây chỉ có một trường cấp I cách đó hai cây số và một lớp học tình thương, học cấp II thì phải đi xa hơn và đến cấp III thì phải ra tận huyện Đất Đỏ. Cuộc sống mưu sinh đã khó khăn, mà học hành lại tốn quá nhiều chi phí nên phần đông các em nhỏ ở đây phải dang dở việc học hành, hoạ hoằn lắm mới có người học hết cấp III. Vả lại theo lời dì, mấy đứa nhỏ ở đây nếu có học hết cấp III thì chưa chắc có điều kiện lên Đại học, mà như thế thì cũng không biết làm gì, chi bằng nghỉ học sớm đặng phụ giúp cha mẹ việc chài lưới.
Dì Ánh rưng rưng không dấu nổi tủi thân khi kể với chúng tôi trước kia dì cũng đã học hết lớp 9, rất muốn học tiếp nhưng vì gia đình quá khó khăn, không nỡ lòng để cha mẹ đã khổ càng khổ hơn, dì đành nghỉ học theo nghề biển của cha mẹ, đỡ đần cho gia đình. Đến giờ, mỗi khi họp lại lớp cũ, nhìn bạn bè năm xưa giờ đã làm ông này bà nọ, giàu có sang trọng, dì cảm thấy tủi thân vô cùng. “Tại sao số kiếp mình lại khổ như vậy…” Nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt đen đúa khắc khổ suốt bốn mươi lăm năm bươn chải cùng làng chài nhỏ bé, khoé mắt chúng tôi cũng thấy cay cay, chỉ biết động viên dì và các em cố gắng học hành ít nhất là hết cấp Ba không thì rồi cuộc đời chúng cũng mãi như những thế hệ đi trước cùng cuộc sống nghèo khổ, khó đổi thay….Nỗi lo riêng của dì Ánh về tương lai của các con rồi đây sẽ ra sao, có được sung túc hơn mình hay không cũng chính là nỗi lo chung của bao nhiêu bậc làm cha làm mẹ ở làng chài nghèo như Phư
c Hải.
· Và nỗi niềm lúc chia tay:
Thời gian xuống thăm làng chài có hạn, chúng tôi đành xin phép mọi người ra về trong sự lưu luyến. Những người ngư dân chân chất, hồn nhiên đầy hiếu khách đã làm chúng tôi thực sự xúc động. Dì Ánh cứ đặn đi dặn lại chúng tôi khi nào ghé Long Hải nhớ đến thăm gia đình dì. Mấy đứa nhỏ còn ngóng theo mãi cho đến khi chúng tôi đi khuất. Thằng bé con dì Ánh còn gọi với theo: “Mấy chị ơi, hè nhớ xuống đây chơi với tụi em nha!”. Chúng tôi ừ đại cho các em vui mà không biết khi nào mới có dịp quay trở lại…
Chuyến thực tập đâu tiên trong đời sinh viên của chúng tôi đã đọng lại bao nhiêu kỷ niệm cảm động khó quên như thế đó. Trở lại thành phố, chúng tôi không những đem theo về hương biển mặn mòi mà còn mang theo cả tấm chân tình đáng quý của bà con nơi đây cùng bao nỗi lo còn đau đáu chất chồng như những cơn sóng ngoài biển xanh xa típ tắp. Trên chuyến xe trở về nơi phố thị phồn hoa, tôi cứ nhớ mãi cái hương vị là lạ của những con ốc nhỏ xíu, các em cho chúng tôi ăn thử. Những con ốc mà tôi quên hỏi tên gì rất ngon và đậm đả được các em tỉ mẩn từng chút một mới dùng kim moi ra được. Thế mà nhìn các em ăn rất ngon lành chúng tôi không khỏi chạnh lòng. Còn đó những ánh mắt thơ ngây, những nụ cười hồn nhiên, những mái đầu cắt ngộ nghĩnh, giành nhau chụp ảnh, tạo dáng “chuyên nghiệp”, cô bé con dúi đầu mắc cỡ nép vào áo mẹ khi chúng tôi “ xin một pô nhé”. Tất cả sao mà quá đỗi thân thương như gia đình tự thuở nào. Và nhớ sao lúc chúng tôi ghé nhà dì Ánh, mấy đứa nhỏ kháo nhau: “Mấy chỉ làm Ngôi nhà mơ ước đó tụi bây ơi”, nghe buồn cười mà thấy buồn thiệt ! Chúng tôi chỉ là những sinh viên, không thể giúp được bà con về vật chất, chỉ có thể hứa sẽ gửi hình và thư xuống hỏi thăm mọi người. Và ngay cả người đang cầm bút viết bài này cũng chỉ biết góp chút tiếng nói từ con tim những mong có một sự thay đổi dù nhỏ, khiền cuộc sống ở những làng chài như Phước Hải đỡ vất vả hơn. Thế là chúng tôi đã mãn nguyện lắm rồi. Thiết nghĩ, chính quyền nơi đây cần quan tâm đến cuộc sống của bà con dân chài nhiều hơn nữa để mọi người được an cư từ đó mới lạc nghiệp, để các em nhỏ có được một “ngôi nhà ước mơ”. Và trước mắt, chính quyền phải nhanh chóng cấp đất và đền bù giải toả theo đúng luật cho bà con. Đồng thời cần có những chính sách khuyến khích học tập, tạo cơ hội cho các em có thể đến trường từ đó thay đổi được cuộc sống nghèo khó, thực sự giúp gia đình thoát nghèo, thoát khổ.
Chờ nhé Long Hải, chúng tôi sẽ quay lại sớm thôi. Quay lại để chứng kiến những đổi thay, những mái nhà mới và những con người mới vào một ngày gần nhất có thể. Ừ, biết đâu…..
Và ngoài xa kia những con sóng và gió biển vẫn ào ạt vỗ khơi…
Tp Hồ Chí Minh, 3/2007